Trước Luật hình sự về Giao thông đường bộ, khi xử trí những hành vi vi phạm những quyết định xử phạt an toàn giao thông đường bộ, dựa trên Quy chế về trật tự chung thủy giao thông đô thị và trật tự dùng biện pháp bảo vệ giao thông đường bộ (ban hành cùng với Nghị định số 36-CP ngày 29 tháng 5 , 1995 của Chính phủ).

Trang chủ: https://congtytuvanluatdfc.wordpress.com
I. Một Số Biểu Hiện Cơ Bản Của Tội Phạm
1. Những Hiện Tượng Thuộc Về Chủ Thể Của Tội Phạm
Cần lưu ý đến một số điều sau khi đưa đến kết quả đối tượng của tội phạm luật hình sự tai nạn giao thông này:
– Người điều khiển phương tiện cũng là người tham gia giao thông, nhưng người tham gia giao thông có khả năng không phải là người điều khiển phương tiện.
– Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông bao gồm người điều khiển phương tiện cơ giới, phương tiện thô sơ và phương tiện chuyên sử dụng tham gia giao thông đường bộ.
– Người tham gia giao thông đường bộ bao gồm người điều khiển và người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người chỉ đạo hoặc dẫn dắt động vật và người đi bộ trên đường.
– Đối với một trong những người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, vì tội này là tội vô ý và không có tình huống nào là tội không tốt.
2. Các Hiện Tượng Thuộc Về Đối Tượng Của Tội Phạm
– Đối tượng của tội phạm này là an toàn giao thông và trật tự.
– Đối tượng của tội phạm này là một số phương tiện giao thông đường bộ, bao gồm xe cơ giới, xe thô sơ và xe chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.
– Hiện nay, một trong những quy định về trật tự và an toàn giao thông được quy định trong Luật Giao thông đường bộ, đã được Quốc hội XH Cộng hòa cộng đồng chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 6 năm 2001. Đây cũng là cơ sở để đưa đến kết quả xem kiềm chế phương tiện giao thông đường bộ đã hoặc chưa được cam kết.
3. Các Hành Vi, Tác Hại Khách Quan Của Tội Phạm
a. Hành vi khách quan
– Người vi phạm này đã vi phạm các quy định về tự chủ phương tiện giao thông đường bộ.
– Để kết cuộc hành vi vi phạm một vài quy định về chủ động phương tiện giao thông đường bộ, trước tiên phải kết quả loại phương tiện giao thông đường bộ bao gồm.
– Trước đây, Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định vi phạm những quy định an toàn giao thông, bởi vì đó phạm vi vi phạm rộng hơn, bao gồm cả một số người không điều khiển phương tiện. Cũng vi phạm, hiện nay tên tội phạm này chỉ quy định vi phạm những quy định về kiềm chế phương tiện giao thông đường bộ, nên phạm vi kết quả vi phạm hẹp hơn.
– Vi phạm các quy định về tự chủ phương tiện giao thông đường bộ là không tuân thủ hoặc không tuân thủ đầy đủ các quy định về dùng biện pháp bảo vệ giao thông đường bộ. Ví dụ: Xe vượt chỉ có tư cách vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trên đường vượt, xe phía trước không có tín hiệu vượt xe khác và ngăn chặn sang phải (Điều 2 Điều ). 14 Luật giao thông đường bộ).
– vì đó, việc kết quả vi phạm một vài quy định về tự chủ phương tiện giao thông đường bộ không chỉ dựa trên những quy định của Bộ luật hình sự mà còn dựa trên một số quy định của Luật giao thông đường bộ và văn bản cách thức dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
– Để ứng phó kịp thời với trường hợp xét xử một vài vụ tai nạn giao thông đường bộ chống lại việc chủ động phương tiện giao thông đường bộ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/2003 / NQ-HDTP. Ngày 17 tháng 4 năm 2003, nhưng chỉ phương hướng dẫn một vài tình huống gây thiệt hại đến tính mạng hoặc thiệt hại không tốt đến sức khỏe và tài sản của người khác; làm cho đe dọa xấu, rất không tốt hoặc đặc biệt nghiêm trọng vì việc điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tạo ra.
b. Tác hại
– ảnh hưởng là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm này. Ví dụ các hành vi vi phạm một số quy định về kiểm soát phương tiện giao thông đường bộ chưa gây thiệt hại đến mạng sống hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe và tài sản của người khác, họ sẽ không cấu thành tội phạm, trừ trường học. Theo khoản 4 của pháp luật.
– Thiệt hại cho cuộc sống là cái chết của người khác;
– Thiệt hại không nhỏ đối với sức khỏe hoặc tài sản của người khác được coi là dẫn đến thương tích cá nhân không tốt hoặc thiệt hại xấu đối với tài sản của người khác.
Hiện tại, theo phương hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2003 / NQ-HDTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (sau đây gọi là Nghị quyết số 02/2003 / NQ-HDTP), Một người được coi là gây nguy hiểm xấu đến sức khỏe hoặc tài sản của người khác trong một trong những tình huống sau:
+ Gây nguy hại cho sức khỏe của một hoặc hai người với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên cho mỗi người;
+ Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả một vài người này là từ 41% đến 100%;
+ Gây nguy hiểm cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và cũng gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây nguy hiểm cho sức khỏe của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả một số người này là từ 30% đến 40% và cũng gây thiệt hại về tài sản. Trị giá từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Cần lưu ý đến khi kết cục thiệt hại tài sản cho người khác:
– Chỉ các tài sản làm cho trực tiếp bởi vì vi phạm quy định về kiểm soát phương tiện giao thông đường bộ và thiệt hại gián tiếp không được tính là thiệt hại để kết cục chịu hoàn toàn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như: bởi bị thương, cần phải trả tiền chữa bệnh và một trong những chi phí khác. Mặc dù một vài thiệt hại này, người phạm tội vẫn phải bồi thường nhưng không được tính để kết luận chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội.
– Thiệt hại về mạng sống, sức khỏe và tài sản vì người phạm tội làm cho là thiệt hại cho người khác, do vậy nó không bao gồm thiệt hại bởi chính người phạm tội tạo ra.
– gây ra ảnh hưởng rất không tốt hoặc đặc biệt không tốt, người phạm tội sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc 3 của luật.
4. Những Hiện Tượng Lơ Là Của Tội Phạm
– Người phạm tội vi phạm những quy định về kiềm chế phương tiện giao thông đường bộ thực hiện một số hành vi vì vô ý.
– Sự tự tin thái quá là một trường hợp người phạm tội thấy rõ trước hành động của mình có thể tạo nên đe dọa có hại cho cộng đồng xã hội, nhưng tin rằng đe dọa giả sử sẽ không xảy đến hoặc được ngừa phòng.
– Sơ suất vô ý là một trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ảnh hưởng có hại cho cộng đồng, mặc dù nó phải được lường trước và nhìn thấy trước.
– Hiện nay, trên những sách và báo, có đề cập đến “cách hỗn hợp” và nó thường được coi là vi phạm một trong những quy định về chủ động phương tiện giao thông đường bộ làm như vậy cho một vài trường hợp lỗi hỗn hợp như: về hành vi, vô ý về hậu quả.
– Người phạm tội vi phạm các quy định về kiềm chế phương tiện giao thông đường bộ có tư cách là bởi vì động cơ khác nhau nhưng không có mục đích vì lỗi của người vi phạm là vì hành vi vô ý nên không thể có mục đích.
II. Khung Hình Phạt Tội Vi Phạm Quy Định Về Tham Gia Giao Thông Đường Bộ
Theo Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 về các tội xâm phạm an toàn giao thông. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ áp dụng cho các trường hợp sau:
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
Trên đây là nội dung Các Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Về Giao Thông Đường Bộ. Nhưng lưu ý có thể bài viết này chúng tôi đã viết cách đây rất lâu nên có thể có những sửa đổi khác cho nên các bạn có thể gọi đến Tổng đài 1900.6213 của Công ty Luật DFC chúng tôi. Đội ngũ Luật sư tư vấn chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ thắc mắc của các bạn.